Minh An-
Bác sĩ Hồ Mạnh Tường, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu di truyền và sức khỏe sinh sản, Khoa Y Đại học Quốc gia TPHCM, cho biết bệnh vô sinh, hiếm muộn có xu hướng gia tăng, với tỷ lệ hiếm muộn ở Việt Nam là 7,7% trong số các cặp vợ chồng.
Trên thế giới, nhiều người có con trễ do đời sống công nghiệp căng thẳng. Chẳng hạn như tại Nhật Bản, nhiều cặp vợ chồng không có con, nhiều người không quan tâm việc lập gia đình vì lo phát triển sự nghiệp, đến khi muốn có con thì đã muộn.
Theo bác sĩ Tường, ước tính Việt Nam có khoảng một triệu cặp vợ chồng hiếm muộn, mà nguyên nhân đến từ cả vợ lẫn chồng.
Hiện nay, nhu cầu khám, điều trị hiếm muộn nói chung tăng có thể do các yếu tố: phụ nữ muốn có con ở độ tuổi trễ hơn (sau 30 tuổi), khi khả năng sinh sản tự nhiên suy giảm, môi trường sống ô nhiễm, công việc căng thẳng có thể góp phần làm giảm khả năng có thai, số lượng và chất lượng tinh trùng nam giới có khuynh hướng ngày càng giảm,
Bên cạnh đó, các bệnh lý y khoa ở phụ nữ có thể gây hiếm muộn cũng gia tăng: nhiễm trùng phụ khoa, rối loạn hoạt động buồng trứng, lạc nội mạc tử cung, u xơ tử cung… Với phụ nữ ngày nay, công việc căng thẳng có thể gây stress làm rối loạn hoạt động buồng trứng. Stress, mệt mỏi cũng làm giảm tần suất quan hệ vợ chồng, làm giảm khả năng có thai.
Bác sĩ Tường cũng cho hay, hiện nay chưa có đủ bằng chứng khoa học cho thấy sử dụng biện pháp tránh thai lâu ngày trực tiếp gây hiếm muộn. Tuy nhiên, có thể có các yếu tố gián tiếp như tránh thai lâu năm, khi muốn có thai thì người phụ nữ đã lớn tuổi, khả năng có thai giảm tự nhiên theo tuổi. Biện pháp tránh thai bằng cách đặt vòng (dụng cụ tử cung) cũng có thể tăng nguy cơ nhiễm trùng đường sinh sản và dẫn đến hiếm muộn. Đặc biệt, hút nạo thai ngoài ý muốn làm tăng nguy cơ viêm nhiễm, tổn thương đường sinh sản, có thể gây hiếm muộn.
Một số chuyên gia sản phụ khoa, hiếm muộn cho biết, tùy theo nguyên nhân mà các phương pháp điều trị sẽ khác nhau. Phương pháp phổ biến hiện nay là thụ tinh nhân tạo, còn gọi là bơm tinh trùng vào buồng tử cung (IUI). Phương pháp này thường dùng cho các trường hợp nhẹ, tuổi trẻ, với tỷ lệ thành công khoảng 15%.
Thứ hai là thụ tinh trong ống nghiệm (IVF/ICSI). Phương pháp này dành cho những trường hợp nặng, lớn tuổi hoặc đã thất bại nhiều lần với IUI. Tỷ lệ thành công của phương pháp này khoảng 50%.
Có người cho rằng, với nhu cầu điều trị bệnh này đang gia tăng, ngành IVF Việt Nam có khả năng thu hút nhiều bệnh nhân nước ngoài đến điều trị nếu có thể kết hợp giữa dịch vụ chữa bệnh với du lịch.
Hiện nay, Việt Nam có 24 trung tâm thụ tinh trong ống nghiệm, và người dân cũng dễ dàng tiếp cận kỹ thuật này. Những người trong ngành cho rằng, so với các nước trong khu vực, Việt Nam có kỹ thuật IVF cao mà chi phí lại thấp. TPHCM là địa phương đi đầu và có những bước tiếp cận về thông tin, kỹ thuật, ngoại ngữ chuyên ngành.
Thụ tinh trong ống nghiệm sẽ được thực hiện với người bị tắc vòi trứng, người có tinh trùng yếu, người thất bại thụ tinh nhân tạo nhiều lần, người vợ trên 38 tuổi và nhiều nguyên nhân kết hợp khác.
Một trường hợp làm thụ tinh trong ống nghiệm trung bình có thể có được 4-6 phôi có thể sử dụng. Số phôi này có thể chia ra cấy vào tử cung từ hai đến ba đợt, mỗi đợt cấy vào tử cung khoảng hai phôi, với khả năng có thai khoảng 40-45%. Những người trẻ tuổi, tỷ lệ thành công cao hơn, còn những người lớn tuổi khả năng thành công sẽ thấp hơn.