Nguyễn Đặng Kỳ
Trăm năm vì lỗi hẹn hò
Cây đa bến cộ con đò khác đưa
Cây đa bến cộ còn lưa
Con đò đã thác năm xưa tê rồi!
Chuyện xưa kể rằng, có chàng thư sinh từ phương Bắc trên đường vào kinh (Huế) ứng thí, đã gặp cô lái đò ngang trên sông Ô Lâu rồi hai người đem lòng mến thương nhau. Sau kỳ thi, chàng về quê và ước hẹn sẽ sớm quay lại gặp nàng. Nhưng rồi, bặt vô âm tín, chàng không trở lại như đã hứa hẹn. Sau thời gian dài mòn mỏi đợi chờ, cô lái đò lâm bệnh mà chết. Lúc chàng trai ngày ấy trở lại tìm người yêu thì cô lái đò năm xưa đã không còn nữa. Câu chuyện đơn giản như hàng ngàn câu chuyện tình khác, nhưng không hiểu sao với tôi cảm giác mến thương cô gái đa tình ngày xưa cứ đọng mãi trong lòng và cứ hẹn với mình thế nào cũng phải tìm đến bến đò ấy một lần.
Để thỏa ước nguyện đó và cũng là dịp thưởng ngoạn khung cảnh trữ tình của sông Ô Lâu, nhóm bạn chúng tôi xuống đò làm một chuyến thám du đường thủy.
Ngao du sông nước
Xuất phát từ một bến sông làng Hội Kỳ, những bụi tre vươn mình trên dòng sông đẹp như tranh vẽ. Nước trong vắt, mát lạnh, mơn man bàn chân, chúng tôi xuôi theo dòng sông lặng lờ trôi. Bên kia là Mỹ Xuyên rồi đến Phước Tích – ngôi làng nổi tiếng với nghề gốm cổ và những ngôi nhà rường đã hàng trăm năm tuổi.
Thuyền chạy khoảng 15 phút, ra đến ngã ba sông Ô Lâu và sông Thác Ma. Hai con sông này đều bắt nguồn từ phía Tây huyện Phong Điền (Thừa Thiên) chảy về phía Đông, băng qua quốc lộ 1A tại cầu Câu Nhi (Ô Lâu) và cầu Mỹ Chánh (Thác Ma) vào đất Hải Lăng (Quảng Trị) rồi nhập dòng trước khi gặp hai phụ lưu khác là Ô Giang và Vĩnh Định (từ Triệu Phong vào) trước khi đổ ra phá Tam Giang.
Từ ngã ba sông, chúng tôi xuôi theo dòng Ô Lâu về hạ lưu. Khung cảnh hai bên bờ êm đềm với những bến nước, con thuyền, những hàng tre đong đưa..., thỉnh thoảng lại gặp những bến sông với hình ảnh sinh hoạt quen thuộc.
Càng đi xuống sông càng hẹp, hai bên là cánh đồng rộng, rải rác xuất hiện những cánh đồng sen rực rỡ khoe màu, hoa lá đung đưa trong không gian ngào ngạt hương sen giúp chúng tôi thấy nhẹ nhàng giữa cái nắng chói chang mùa hạ với gió Lào rát mặt.
Thuyền chạy khoảng 10 cây số thì đến Vân Trình. Đây là nơi Ô Lâu gặp sông Vĩnh Định và tiếp tục đổ ra phá Tam Giang. Sau khi vượt qua cầu Vân Trình, lòng sông ngày càng rộng, mặc dầu chưa đến phá nhưng những bè cá, những chiếc thuyền đánh cá, đã nghe rộn rã tiếng lóc cóc đuổi cá của ngư dân vùng sông nước Tam Giang.
Thời xưa, khi phương tiện giao thông còn thô sơ, đường bộ chưa được mở mang, việc vận chuyển hàng hóa, đi lại giữa Quảng Trị, Huế chủ yếu dựa vào đường thủy thì sông Ô Lâu và các phụ lưu như Vĩnh Định – Ô Giang và Thác Ma đóng một vai trò quan trọng trong việc tiêu thụ nông sản của hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng. Từ sông Thạch Hãn, ghe thuyền vào sông Vĩnh Định đến các chợ thu mua nông sản và đón khách rồi theo sông Ô Lâu vô phá Tam Giang, theo sông Hương để lên Huế và ngược lại trên thủy lộ này.
Thuyền chúng tôi chạy thêm khoảng gần nửa giờ thì vào đến Đại Lộc (xưa gọi là Đại Lược), nơi ngày xưa có ngôi chợ khá lớn hội tụ thương hồ về đây tấp nập ngược xuôi trên thủy lộ Huế – Quảng Trị. Nhưng nay, chợ đã dời xa sông, nên chúng tôi không ghé vào và cũng không có ý định vào phá Tam Giang nên cho quay thuyền trở ra.
Rời Vân Trình, sau bữa ăn trưa với món lẩu cá dét ngon tuyệt ở một quán ăn bên ngã ba sông, chúng tôi theo Ô Giang đi khoảng hơn một cây số vào vùng trũng của Hải Lăng, nơi có những xóm càng độc đáo.
Vùng trũng với những xóm càng
Đây là một vùng đất trũng mênh mông với hàng ngàn héc ta ruộng sâu ngập nước quanh năm. Cảnh vật khiến cho ta liên tưởng đến mùa nước nổi ở miền Tây Nam bộ, chỉ khác là nhìn về phía Tây thấy rặng Trường Sơn như bức trường thành xanh xanh chập chùng xa thẳm.
“Càng” là từ để chỉ những xóm nhà và vườn tược trên đất cao nhô ra như những “bán đảo” trên vùng nước ngập mênh mông này. Nông dân các làng gần đó ra càng mở rộng diện tích canh tác rồi làm nhà ở, có lẽ cũng là do nhu cầu mở rộng đất thổ cư khi dân số phát triển. Nhưng, hỏi nhiều người, chưa được ai giải thích vì sao gọi những xóm đó là “càng”, nên tôi đoán rằng địa dạng những xóm càng này giống như những càng cua, vươn ra trên mặt nước chăng?
Sau một hồi vòng vèo quanh co, chúng tôi đến một đoạn Ô Giang thẳng tắp, hai bên bờ có đê bao với những cống thoát nước, phía sau là đồng ruộng bạt ngàn. Thuyền cứ chạy, nước sông cứ lững lờ trôi, bầu trời bỗng chuyển mây đen vần vũ. Giữa cánh đồng bao la, nổi bật trên nền trời là ngọn tháp chuông của một ngôi nhà thờ hiện ra trước mắt. Khoảng nửa giờ sau thuyền cập bến ngay trước ngôi thánh đường khá bề thế và đẹp ở làng Cây Da (xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng). Ngày trước, muốn đến đây người ta phải dùng xuồng, thuyền hoặc men theo các đường đê, bờ ruộng đi vòng khá xa. Ngày nay việc đi lại đã thuận tiện hơn nhiều. Trong khuôn viên nhà thờ Cây Da có một ngôi trường do cha xứ lập nên để dạy cho các con em trong làng và các càng chung quanh.
Rời Cây Da, theo dòng Ô Giang trở về Ô Lâu, bên này sông là Hà Lỗ, Câu Nhi, bên kia là Lương Điền, chúng tôi đã trở lại ngã ba sông nơi cái doi đất hình đầu con rùa của làng Câu Nhi nhô ra sông, là nơi mà dân Câu Nhi cho rằng linh địa của làng. Từ đây chúng tôi trở về bến sông ở Hội Kỳ, nơi xuất phát chuyến du ngoạn này.
Cây Đa bến Cộ đâu rồi?
Sau gần một ngày rong ruổi trên dòng sông huyền thoại, vui thì vui nhưng lòng tôi vẫn mang nặng nỗi băn khoăn là chưa ghé thăm nơi bến sông xưa, nơi diễn ra câu chuyện tình làm nên câu hò quen thuộc, truyền khẩu trong dân gian Quảng Trị.
Nhiều lần hỏi thăm người địa phương. Nơi nào là bến đò ngày xưa ấy? Có người nói là bến đò nơi làng Cây Da, theo họ thì câu ca dao là “Cây Da, bến Cộ con đò khác đưa”. Tôi vẫn băn khoăn vì bến đò phải nằm trên đường cái quan trong khi đó làng Cây Da nằm ở giữa vùng trũng nên đường cái quan không thể đi qua đó được.
Có người lại nói là bến đò ấy nằm phía Tây cầu Mỹ Chánh trên đường quốc lộ hiện nay. Tôi vẫn băn khoăn vì nếu bến đò ở đó là qua sông Thác Ma chứ không phải Ô Lâu. Cũng có người cho biết ngay tại Lương Điền có một bến đò gọi là Ba Bến vì từ đây có đò vượt Ô Giang qua Câu Nhi và có đò vượt Ô Lâu qua Mỹ Xuyên, nghe thì biết vậy chứ chưa chắc chắn gì cả. Thôi đành lòng vậy, lại hẹn với Ô Lâu một dịp khác chứ biết làm sao hơn!
May mắn khi về nhà, đọc lại một số sách xưa như Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí của Lê Quang Định hoặc Đại Nam Nhất Thống Chí của Quốc sử quan triều Nguyễn, trong đó có ghi rõ có bến đò Lương Điền ở huyện Hải Lăng và bến đò Mỹ Xuyên thuộc huyện Phong Điền và con đường cái quan từ Huế ra đến Mỹ Xuyên qua Lương Điền đến Trường Sanh, Diên Sanh. Tại Mỹ Xuyên lại có nhà trạm là nơi có nhiệm vụ chuyển công văn thư từ của triều đình. Từ những tài liệu trên, tôi tin rằng bến đò năm xưa nằm ở làng Lương Điền và Mỹ Xuyên, trên đường cái quan từ phía Bắc vào Huế.
Cây đa, bến cũ nay đã khác xưa, nhưng không nhiều thì ít cũng mong còn một số dấu tích, hoặc phần mộ cô lái đò năm xưa ở đâu đó.