Thứ năm, Tháng mười một 21, 2024

Tiềm năng của của hệ sinh thái ‘carbon xanh’ ở Đông Nam Á đang bị lãng phí

(SGTT) - Đông Nam Á là một trong những nơi có  hệ sinh thái “carbon xanh” (blue carbon) lớn nhất  lớn nhất thế giới, bao gồm rừng ngập mặn và sinh cảnh cỏ biển, những nơi hấp thụ carbon rất hiệu quả. Nhưng hoạt động của con người như nuôi trồng thủy sản, cùng  với sự quản lý lỏng lẻo đang gây tổn hại cho tiềm năng “carbon xanh”.
Rừng ngập mặn ở Lhokseumawe, tỉnh Aceh, Indonesia. Indonesia là nơi có hơn 1/3 diện tích rừng ngập mặn của thế giới. Ảnh: Xinhua

Từ Bali (Indonesia) đến Phuket (Phuket), những bãi biển xinh đẹp ở Đông Nam Á luôn thu hút du khách. Nhưng ít ai nhận ra rằng, các bờ biển rộng lớn ở những nơi này có hệ sinh thái phong phú, có thể hỗ trợ cho mục tiêu đưa lượng phát thải ròng của carbon về mức zero (Net- Zero)

Theo Siti Maryam Yaakub, giám đốc cấp cao của Viện Carbon xanh quốc tế (IBCI), có trụ sở tại Singapore, hệ thống đại dương bao gồm các thực vật phù du nhỏ bé đến các vành đai rừng ngập mặn và thảm cỏ biển có thể lưu trữ lượng carbon nhiều gấp 5 lần so với rừng nhiệt đới. Tuy nhiên, tiềm năng to lớn của hệ thống đại dương trong cuộc chiến biến đổi khí hậu đang suy kiệt  nhanh chóng.

Thuật ngữ “carbon xanh” , theo cách gọi của các nhà khoa học gọi, là carbon được lưu trữ trong các hệ thống đại dương. Và Đông Nam Á là một trong những nguồn lưu trữ carbon xanh lớn nhất thế giới. Vấn đề là Đông Nam Á đang chứng kiến tổn thất lớn về tiềm năng này do hoạt động của con người như nuôi trồng thủy sản.

Ở Đông Nam Á, hai hệ sinh thái carbon xanh chiếm ưu thế là rừng ngập mặn và sinh cảnh cỏ biển. Rừng ngập mặn thực chất là rừng mọc ở vùng tiếp giáp giữa đất liền và biển. Còn cỏ biển là thực vật sống dưới nước, phát triển mạnh ở vùng nước lợ và vùng biển nông. Indonesia chiếm 1/3 diện tích rừng ngập mặn trên thế giới. Philippines và Campuchia cũng có những vành đai rừng ngập mặn.

Yaakub cho biết, Đông Nam Á lỏng lẻo trong việc quản lý và bảo tồn tiềm năng carbon xanh. “Ví dụ, rất nhiều rừng ngập mặn ở Sumatra và Java (ở Indonesia), đang nhanh chóng được chuyển đổi sang nuôi tôm và cũng như chuyển đổi sang trồng cọ dầu”, bà nói.

Yaakub lưu ý, nhiều khu vực nghèo ở Đông Nam Á chứng kiến nạn chặt phá rừng ngập mặn để làm củi nấu ăn, trong khi tình trạng xói mòn bờ biển liên tục cũng đang diễn ra do tác động của biến đổi khí hậu. “Với mực nước biển dâng cao, bạn sẽ thấy nhiều khu rừng ngập mặn ở Đông Nam Á bị ngập thường xuyên hơn. Và bạn cũng sẽ chứng kiến những thay đổi về thủy động lực học, dẫn đến xói mòn rừng ngập mặn”, Yaakub nói.

Theo Yaakub, ngay cả những nước giàu như Singapore cũng để mất nhiều vùng rừng ngập mặn trong những năm qua do việc lấn đất ra biển để triển khai các dự án đô thị hóa. Với dân số cao, Myanmar và Indonesia là những nước ở Đông Nam Á có rừng ngập mặn bị ảnh hưởng nặng nề nhất do đô thị hóa nhanh chóng.

Yaakub cho rằng, các hệ thống biển cần được bảo vệ và nuôi dưỡng vì vai trò của chúng trong hấp thụ carbon vào sinh khối thực vật và lớp đất trầm tích.

Bà chỉ ra rằng, có khoảng 71 nước trên thế giới có ba nguồn carbon xanh giàu nhất, gồm rừng ngập mặn, thảm cỏ biển và đầm lầy muối. Tuy nhiên, cho đến nay, mới chỉ  một nửa trong số các nước này đưa các giải pháp bảo vệ thiên nhiên ven biển vào Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC). NDC là một kế hoạch hành động khí hậu nhằm cắt giảm khí thải nhà kính và thích ứng với các tác động của khí hậu. Mỗi bên tham gia Thỏa thuận khí hậu Paris được yêu cầu thiết lập NDC và cập nhật NDC 5 năm một lần.

Thỏa thuận Paris nhằm mục đích tăng cường ứng phó toàn cầu trước mối đe dọa của biến đổi khí hậu bằng cách hạn chế mức tăng nhiệt độ toàn ở mức dưới 2 độ C so với thời kỳ tiền công nghiệp trong thế kỷ này. Một báo cáo của Liên Hợp Quốc hồi năm ngoái cho biết, thế giới không đi đúng hướng để đạt được mục tiêu này. Hầu hết các nước Đông Nam Á cũng đặt mục tiêu Net -Zero vào năm 2050 hoặc 2060.

Tiềm năng của carbon xanh trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu lần đầu tiên được Ủy ban liên chính phủ của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu công nhận khoảng 13 năm trước. Kể từ đó, nguồn tài nguyên này dần được các nước công nhận rộng rãi.

IBCI đang khuyến khích các nước đưa hệ sinh thái carbon xanh vào NDC. Hồi tháng 10 năm ngoái, IBCI đã tổ chức các hội thảo xoay quanh các giải pháp chính sách và tài chính cho carbon xanh với sự hỗ trợ của chính phủ Anh và Ban thư ký biến đổi khí hậu quốc gia Singapore.

Một nhà khoa học khí hậu khác cho biết, việc phát triển carbon xanh nên là ưu tiên hàng đầu của các chính phủ, nhưng cần phải đi đôi với nỗ lực giảm lượng khí thải carbon từ các ngành công nghiệp và các nguồn khác.

Souparna Lahiri, cố vấn cấp cao về chính sách khí hậu và đa dạng sinh học tại Liên minh Rừng toàn cầu, cảnh báo, không nên sử dụng lợi ích thu được từ việc phát triển các hệ sinh thái carbon xanh để bán tín chỉ carbon trên thị trường thế giới. Ông cho rằng điều này sẽ khuyến khích các ngành gây ô nhiễm tiếp tục phát thải, ảnh hưởng đến các mục tiêu về khí hậu.

“Các hệ sinh thái biển là nơi hấp thụ carbon rất tốt và lẽ ra chúng phải được bảo vệ theo cách truyền thống. Nhưng bạn không nên tìm cách phát triển chúng để bán tín chỉ carbon nhằm giúp các ngành công nghiệp bù đắp lượng phát thải carbon của họ”, ông nói.

Khánh Lan

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Kết nối